SƠN TRA
Sơ lược
Sơn tra là quả chín thái mỏng phơi hay sấy khô của một số loài sơn tra.
Tên khác của Sơn tra: Chua chát, cây gan, sán sá (Tày), co sam sa (Thái).
Tên khoa học: Crataegus pinnatifida Bunge (Bắc sơn tra), Crataegus cuneata Sieb.et Zucc. (nam sơn tra, dã sơn tra). Malus doumeri Bois.A.Chev hay Docynia doumeri Schneid. (Cây sơn tra, chua chát).
Họ khoa học: Họ Hoa hồng (Rosaceae).
Mô tả cây
Bắc sơn tra (Crataegus pinnatifida) là một cây cao 6m, cành nhỏ thường có gai. Lá dài 5-10cm, rộng 4-7cm, có 3-5 thùy, mép có răng cưa, mặt dưới dọc theo các gân có lông mịn, cuống lá dài 2-6cm. Hoa mẫu 5, hợp thành tán. Đài có lông mịn, cánh hoa màu trắng, 20 nhị. Quả hình cầu, đường kính 1-1,5cm, khi chín có màu đỏ thắm.
Hình 1: Bắc sơn tra vơi lá to hơn nam sơn tra
Cây nam sơn tra hay dã sơn tra (Crataegus cuneata) cao 15m, có gai nhỏ 5-8 mm. Lá dài 2-6cm, rộng 1-1,4cm, có 3-7 thùy, mặt dưới lúc đầu có lông, sau nhẵn. Hoa mẫu 5, hợp thành tán. Cánh hoa trắng, 20 nhị. Quả hình cầu đường kính 1-1,2cm, chín có màu vàng hay đỏ. Điểm phân biệt 2 loại sơn tra này là kích thước lá của Bắc sơn tra lớn hơn Nam sơn tra.
Hình 2: Nam sơn tra với lá nhỏ hơn bắc sơn tra
Ở Việt Nam nay đang khai thác với tên sơn tra hay chua chát, quả của hai loài cây khác nhau:
Cây chua chát, còn gọi là sán sá (Tày) có tên khoa học Malus doumeri (Bois) Chev. Hay Docynia doumeri (Bois) Schneid. Cây này cao 10-15m, cây non có gai. Lá nguyên hình bầu dục dài 6-15cm, rộng 3-6cm, mép khía răng cưa. Hoa hợp thành tán từ 3-6 hoa, cánh màu trắng. Quả tròn hơi dẹt, khi chín ngả màu vàng lục, đường kính 5-6cm, cao 4-5cm vị chua hơi chát.
Hình 3: Sơn tra (chua chát) với quả dẹt, lá có đuôi nhọn hơn Táo mèo
Cây táo mèo, còn gọi là chi tô di (Mèo) có tên khoa học Docynia indica (Mall.) Dec. Cây nhỡ cao 5-6m, cây non có cành có gai. Lá đa dạng, ở cây non lá mọc so le, xẻ 3-5 thùy, mép có răng cưa không đều. Ở thời kỳ cây trưởng thành lá hình bầu dục dài 6-10cm, rộng 2-4cm, mép nguyên hoặc hơi khía răng. Hoa hợp từ 1-3 hoa, cánh hoa màu trắng. Nhị 30-50. Quả hình cầu thuôn, đường kính 3-4cm, khi chín màu vàng lục, có vị chua hơi chát. Mùa hoa tháng 3, mùa quả tháng 9-10. Đặc điểm phân biệt táo mèo và cây chua chát là ở lá và quả. Lá của cây táo mèo không nhọn như cây chua chát, quả thuôn dài hơn.
Hình 4: Quả và lá táo mèo (lá có đuôi tròn hơn)
Phân bố, thu hái, chế biến
Trước đây sơn tra hoàn toàn nhập từ Trung Quốc. Những năm gần đây ta đã thu mua táo mèo và chua chát dùng với tên sơn tra. Như chúng ta thấy hai cây này đều khác chi sơn tra thật (Crataegus) do đó cần nghiên cứu so sánh việc sử dụng.
Cây chua chát được khai thác ở Cao Bằng, Lạng Sơn.
Táo mèo mọc hoang và được trồng ở Lai Châu, Yên Bái, Sơn La, Lào Cai độ cao trên 1000m.
Quả sơn tra hay chua chát, táo mèo chín được hái về, thái ngang hay bổ dọc, phơi hay sấy khô.
Mô tả dược liệu
Quả thịt hình cầu, vỏ ngoài màu nâu bóng, nhăn nheo, phần thịt quả màu nâu, cứng chắc, ở giữa có 5 hạch cứng. Dược liệu khô là quả được cắt thành từng phiến dày 0.2-0.5cm, đường kính khoảng 1.5-3.0cm. Phiến có dạng tròn hay bầu dục, hơi cong queo, một số phiến mang cuống quả, một số phiến không có hạch cứng tùy theo vị trí cắt. Hạt màu nâu đen, hình trứng nhăn nheo, nhân hạt màu trắng ngà. Thịt quả có vị chua, chát.
Hình 5: Dược liệu sơn tra
Thành phần hóa học
Năm 1957 Viện nghiên cứu thực phẩm của Trung Quốc phân tích sơn tra thấy Protid 0,7%, chất béo 0,2%; Hydrat Carbon 22%; Caroten 0,00082%; Vitamin C 0,0089%.
Sơ bộ nghiên cứu sơn tra Việt Nam (Lào Cai, Hoàng Liên Sơn) thấy có 2,76% Tanin; 16,4% chất đường; 2,7% acid hữu cơ (Tactric, Citric tính theo H2SO4).
Tác dụng dược lý
Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu về quả sơn tra Việt Nam và Trung Quốc.
Quả sơn tra của Liên Xô cũ được Pootguôcxki B. B. (1951) và Checnuxep (1954) nghiên cứu thấy chế phẩm của sơn tra làm tăng sự co bóp của cơ tim đồng thời làm giảm sự kích thích của cơ tim. Sơn tra còn làm tăng sự tuần hoàn ở mạch máu tim và mạch máu não, tăng độ nhạy của tim đối với tác dụng của các glucosid chữa tim.
Tính vị, công năng
Theo tài liệu cổ, sơn tra có vị chua, ngọt tính ôn vào 3 kinh tỳ vị và can, tiêu được các thứ thịt tích trong bụng. Tuy nhiên trong tài liệu cổ ghi về sơn tra còn nói thêm là sơn tra phá được khí, hành ứ, hóa đờm rãi, giải được độc cá, lở sơn, chữa tả lỵ, trị tích thối, huyết khối, giảm đau, đồng thời ghi chú rằng: “Ăn nhiều sơn trà thì hao khí hại răng, những người gầy còm thì chớ ăn”.
Công dụng và liều dùng
Hiện nay đông y và tây y dùng sơn tra với hai mục đích khác nhau.
Tây y coi sơn tra là một vị thuốc chủ yếu tác dụng trên tuần hoàn (tim, mạch máu) và giảm đau, an thần.
Đông y lại coi sơn tra là một vị thuốc chủ yếu tác dụng trên bộ máy tiêu hóa.
Liều dùng trong đông y: Ngày uống 3-10g dưới dạng sắc, uống một vị hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.
Tây y dùng dưới dạng cao lỏng (ngày uống 3-4 lần trước bữa ăn, mỗi lần 20-30 giọt) hoặc cồn thuốc để chữa các bệnh về tim mạch, huyết áp và giảm đau.
Các đơn thuốc có sơn tra
- Đơn thuốc chữa ăn uống không tiêu
Sơn tra 10g, chỉ thực 6g, trần bỉ 5g, hoàng liên 2g, nước 600mk, sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.
- Chữa hóc xương cá
Sơn tra 15g, sắc đặc với 200ml nước. Ngậm một lúc lâu rồi nuốt đi.
- Trị kiết lỵ cấp, đại trường viêm cấp
Sơn tra (sao cháy) 120g, Bạch biển đậu (hoa) 30g. sắc uống ngày 1 thang.
Thận trọng
Dùng thận trọng đối với bệnh nhân tỳ vị hư nhược.

Sơ lược
Sơn tra là quả chín thái mỏng phơi hay sấy khô của một số loài sơn tra.
Tên khác của Sơn tra: Chua chát, cây gan, sán sá (Tày), co sam sa (Thái).
Tên khoa học: Crataegus pinnatifida Bunge (Bắc sơn tra), Crataegus cuneata Sieb.et Zucc. (nam sơn tra, dã sơn tra). Malus doumeri Bois.A.Chev hay Docynia doumeri Schneid. (Cây sơn tra, chua chát).
Họ khoa học: Họ Hoa hồng (Rosaceae).
Mô tả cây
Bắc sơn tra (Crataegus pinnatifida) là một cây cao 6m, cành nhỏ thường có gai. Lá dài 5-10cm, rộng 4-7cm, có 3-5 thùy, mép có răng cưa, mặt dưới dọc theo các gân có lông mịn, cuống lá dài 2-6cm. Hoa mẫu 5, hợp thành tán. Đài có lông mịn, cánh hoa màu trắng, 20 nhị. Quả hình cầu, đường kính 1-1,5cm, khi chín có màu đỏ thắm.
Hình 1: Bắc sơn tra vơi lá to hơn nam sơn tra
Cây nam sơn tra hay dã sơn tra (Crataegus cuneata) cao 15m, có gai nhỏ 5-8 mm. Lá dài 2-6cm, rộng 1-1,4cm, có 3-7 thùy, mặt dưới lúc đầu có lông, sau nhẵn. Hoa mẫu 5, hợp thành tán. Cánh hoa trắng, 20 nhị. Quả hình cầu đường kính 1-1,2cm, chín có màu vàng hay đỏ. Điểm phân biệt 2 loại sơn tra này là kích thước lá của Bắc sơn tra lớn hơn Nam sơn tra.
Hình 2: Nam sơn tra với lá nhỏ hơn bắc sơn tra
Ở Việt Nam nay đang khai thác với tên sơn tra hay chua chát, quả của hai loài cây khác nhau:
Cây chua chát, còn gọi là sán sá (Tày) có tên khoa học Malus doumeri (Bois) Chev. Hay Docynia doumeri (Bois) Schneid. Cây này cao 10-15m, cây non có gai. Lá nguyên hình bầu dục dài 6-15cm, rộng 3-6cm, mép khía răng cưa. Hoa hợp thành tán từ 3-6 hoa, cánh màu trắng. Quả tròn hơi dẹt, khi chín ngả màu vàng lục, đường kính 5-6cm, cao 4-5cm vị chua hơi chát.
Hình 3: Sơn tra (chua chát) với quả dẹt, lá có đuôi nhọn hơn Táo mèo
Cây táo mèo, còn gọi là chi tô di (Mèo) có tên khoa học Docynia indica (Mall.) Dec. Cây nhỡ cao 5-6m, cây non có cành có gai. Lá đa dạng, ở cây non lá mọc so le, xẻ 3-5 thùy, mép có răng cưa không đều. Ở thời kỳ cây trưởng thành lá hình bầu dục dài 6-10cm, rộng 2-4cm, mép nguyên hoặc hơi khía răng. Hoa hợp từ 1-3 hoa, cánh hoa màu trắng. Nhị 30-50. Quả hình cầu thuôn, đường kính 3-4cm, khi chín màu vàng lục, có vị chua hơi chát. Mùa hoa tháng 3, mùa quả tháng 9-10. Đặc điểm phân biệt táo mèo và cây chua chát là ở lá và quả. Lá của cây táo mèo không nhọn như cây chua chát, quả thuôn dài hơn.
Hình 4: Quả và lá táo mèo (lá có đuôi tròn hơn)
Phân bố, thu hái, chế biến
Trước đây sơn tra hoàn toàn nhập từ Trung Quốc. Những năm gần đây ta đã thu mua táo mèo và chua chát dùng với tên sơn tra. Như chúng ta thấy hai cây này đều khác chi sơn tra thật (Crataegus) do đó cần nghiên cứu so sánh việc sử dụng.
Cây chua chát được khai thác ở Cao Bằng, Lạng Sơn.
Táo mèo mọc hoang và được trồng ở Lai Châu, Yên Bái, Sơn La, Lào Cai độ cao trên 1000m.
Quả sơn tra hay chua chát, táo mèo chín được hái về, thái ngang hay bổ dọc, phơi hay sấy khô.
Mô tả dược liệu
Quả thịt hình cầu, vỏ ngoài màu nâu bóng, nhăn nheo, phần thịt quả màu nâu, cứng chắc, ở giữa có 5 hạch cứng. Dược liệu khô là quả được cắt thành từng phiến dày 0.2-0.5cm, đường kính khoảng 1.5-3.0cm. Phiến có dạng tròn hay bầu dục, hơi cong queo, một số phiến mang cuống quả, một số phiến không có hạch cứng tùy theo vị trí cắt. Hạt màu nâu đen, hình trứng nhăn nheo, nhân hạt màu trắng ngà. Thịt quả có vị chua, chát.
Hình 5: Dược liệu sơn tra
Thành phần hóa học
Năm 1957 Viện nghiên cứu thực phẩm của Trung Quốc phân tích sơn tra thấy Protid 0,7%, chất béo 0,2%; Hydrat Carbon 22%; Caroten 0,00082%; Vitamin C 0,0089%.
Sơ bộ nghiên cứu sơn tra Việt Nam (Lào Cai, Hoàng Liên Sơn) thấy có 2,76% Tanin; 16,4% chất đường; 2,7% acid hữu cơ (Tactric, Citric tính theo H2SO4).
Tác dụng dược lý
Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu về quả sơn tra Việt Nam và Trung Quốc.
Quả sơn tra của Liên Xô cũ được Pootguôcxki B. B. (1951) và Checnuxep (1954) nghiên cứu thấy chế phẩm của sơn tra làm tăng sự co bóp của cơ tim đồng thời làm giảm sự kích thích của cơ tim. Sơn tra còn làm tăng sự tuần hoàn ở mạch máu tim và mạch máu não, tăng độ nhạy của tim đối với tác dụng của các glucosid chữa tim.
Tính vị, công năng
Theo tài liệu cổ, sơn tra có vị chua, ngọt tính ôn vào 3 kinh tỳ vị và can, tiêu được các thứ thịt tích trong bụng. Tuy nhiên trong tài liệu cổ ghi về sơn tra còn nói thêm là sơn tra phá được khí, hành ứ, hóa đờm rãi, giải được độc cá, lở sơn, chữa tả lỵ, trị tích thối, huyết khối, giảm đau, đồng thời ghi chú rằng: “Ăn nhiều sơn trà thì hao khí hại răng, những người gầy còm thì chớ ăn”.
Công dụng và liều dùng
Hiện nay đông y và tây y dùng sơn tra với hai mục đích khác nhau.
Tây y coi sơn tra là một vị thuốc chủ yếu tác dụng trên tuần hoàn (tim, mạch máu) và giảm đau, an thần.
Đông y lại coi sơn tra là một vị thuốc chủ yếu tác dụng trên bộ máy tiêu hóa.
Liều dùng trong đông y: Ngày uống 3-10g dưới dạng sắc, uống một vị hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.
Tây y dùng dưới dạng cao lỏng (ngày uống 3-4 lần trước bữa ăn, mỗi lần 20-30 giọt) hoặc cồn thuốc để chữa các bệnh về tim mạch, huyết áp và giảm đau.
Các đơn thuốc có sơn tra
- Đơn thuốc chữa ăn uống không tiêu
Sơn tra 10g, chỉ thực 6g, trần bỉ 5g, hoàng liên 2g, nước 600mk, sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.
- Chữa hóc xương cá
Sơn tra 15g, sắc đặc với 200ml nước. Ngậm một lúc lâu rồi nuốt đi.
- Trị kiết lỵ cấp, đại trường viêm cấp
Sơn tra (sao cháy) 120g, Bạch biển đậu (hoa) 30g. sắc uống ngày 1 thang.
Thận trọng
Dùng thận trọng đối với bệnh nhân tỳ vị hư nhược.
ĐƯƠNG QUY
Đương quy (Radix Angelicae sinensis) là rễ phơi hoặc sấy khô của cây đương quy, là vị thuốc có mặt trong 80 bài thuốc y học cổ truyền Trung Hoa cách đây hàng ngàn năm. Trong tên gọi của đương quy, quy có nghĩa là về. Đặt tên như vậy là vì vị thuốc này có tác dụng điều hòa khí huyết, làm cho huyết trở về đúng vị trí. Đương quy còn được gọi là nhân sâm dành cho phụ nữ vì được sử dụng trong các bài thuốc bắc điều trị các bệnh của phụ nữ. Theo đông y, đương quy vị ngọt, cay tính ôn; vào 3 kinh: tâm, can, và tỳ; có tác dụng bổ huyết, hoạt huyết, nhuận táo, hoạt trường, điều huyết, thông kinh. Đương quy là một vị thuốc rất phổ thông, là đầu vị trong thuốc chữa bệnh phụ nữ, đồng thời dùng trong nhiều đơn thuốc bổ và trị bệnh khác.
ĐỖ TRỌNG
Tên gọi khác: Tự trọng, Ngọc tỳ bi
Tên khoa học: Eucommia ulmoides Oliv.
Họ thực vật: Đỗ trọng Eucommiaceae
Là vị thuốc từ vỏ phơi khô của cây đỗ trọng, được sử dụng hàng ngàn năm nay với công năng kỳ diệu, mang đầy tính huyền thoại. Các thầy thuốc dùng đỗ trọng làm vị thuốc chủ đạo trong các bài thuốc điều trị phong thấp, tê ngứa, đau lưng dưới, đau đầu gối, ngăn ngừa sảy thai, hạ huyết áp. Khoa học hiện đại đã kiểm chứng một số tác dụng của đỗ trọng theo đông y và cho kết quả khả quan. Không những vậy, đỗ trọng còn có ý nghĩa trong tìm kiếm phương pháp điều trị mới cho các bệnh nan y. Ngày nay, ngoài các phương pháp chế biến truyền thống như sao đen, dùng sống, ngâm rượu, trên thị trường đã có thêm các chế phẩm bào chế hiện đại của đỗ trọng nhằm tiện lợi cho người dùng.
ĐỌC HOẠT
Độc hoạt là rễ phơi khô của cây độc hoạt, chứa nhiều chất coumarin nên có mùi thơm dễ chịu. Theo Đông y, độc hoạt vị cay đắng, tính ôn; vào kinh can, thận và bàng quang, có tác dụng tán phong hàn thấp tà, nhất là về mặt trừ phong giảm đau, dùng chữa trị phong thấp, đau khớp, thiên về phong tà, chân tay co quắp, đau lưng, nhức gối mà đau di chuyển chỗ này sang chỗ khác. Hễ cơ nhục, các khớp tê bởi hàn thấp tà, không dùng loại khí vị mănh liệt này, thì không thể nhập thẳng đến giữa kinh mạch khớp xương, vì vậy Độc hoạt là thuốc trị các chứng nặng về phong tê mềm yếu ắt không thể thiếu được.
Ngoài ra Độc hoạt còn dùng cả cho các chứng bệnh do phong, đau đầu, hoa mắt và đau sưng răng.
Bình Luận Bài Viết