Nguyên Nhân Chính Của Viêm Loét Dạ Dày

Viêm loét dạ dày là một bệnh lý tiêu hóa rất phổ biến tại Việt Nam cũng như trên thế giới. Bệnh do rất nhiều nguyên nhân gây ra và có nhiều biến chứng nguy hiểm như xuất huyết dạ dày, thủng dạ dày, ung thư dạ dày… Nhiều trường hợp bệnh tiến triển mà không có triệu chứng, và người bệnh cũng chủ quan với những nguy cơ có thể gặp phải.

 Viêm loét dạ dày là kết quả của sự mất cân bằng giữa 2 yếu tố: yếu tố bảo vệyếu tố phá hủy niêm mạc dạ dày. Yếu tố bảo vệ của dạ dày là lớp niêm mạc bình thường có lớp nhầy bao phủ chống lại môi trường acid trong dạ dày, nhưng nếu nồng độ acid trong dạ dày tăng lên hoặc lượng chất nhầy bao phủ niêm mạc dạ dày giảm sẽ gây ra loét dạ dày. Dưới đây là những nguyên nhân dẫn đến sự mất cân bằng đó:

1. Vi khuẩn Helicobacter pylori (HP)

Được phát hiện ra năm 1982 bởi các nhà khoa học Úc, Helicobacter pylori (còn gọi là xoắn khuẩn HP) được cho là tác nhân gây nhiễm khuẩn mạn tính phổ biến nhất thế giới, đồng thời là căn nguyên chính của viêm loét dạ dày và loét đường tiêu hóa.

Hầu hết các loại vi khuẩn không thể sống trong dạ dày vì đây là môi trường rất axit .Tuy nhiên, vi khuẩn HP có thể sống và sinh sôi thuận lợi trong lớp chất nhầy bao phủ niêm mạc dạ dày, bởi chúng tiết ra một loại enzyme gọi là urease. Chính enzyme urease này tạo ra các chất trung hòa giúp bảo vệ HP khỏi tính axit mạnh của dạ dày.

E:\Cong tac vien\nguyen nhan_pic 1.jpg

Pic 1: Vi khuẩn H. pylori gây viêm loét dạ dày

HP gây viêm loét dạ dày như thế nào?

HP hiện diện trong cơ thể con người là điều rất phổ biến, bởi chúng lây lan rất dễ dàng thông qua việc dùng chung dụng cụ ăn uống hoặc tiếp xúc trực tiếp với nước bọt hay phân của người nhiễm bệnh. Trong điều kiện bình thường thì HP không gây hại, nhưng khi lớp nhầy bao phủ niêm mạc bị phá vỡ nó có thể gây viêm và dẫn đến loét dạ dày.

Xoắn khuẩn HP sẽ sản sinh ra NH3,  điều này làm cản trở sự tổng hợp chất nhầy, đồng thời làm biến dạng cấu trúc phân tử của chất nhầy khiến cho lớp chất nhầy của niêm mạc dạ dày dễ bị tiêu hủy bởi Pepsin (là một loại men tiêu hóa thức ăn của chính dạ dày tiết ra). Bên cạnh đó, HP còn tiết ra các loại enzyme và độc tố gây tổn thương trực tiếp lên tế bào niêm mạc dạ dày.

Xoắn khuẩn HP tồn tại trong cơ thể người khỏe mạnh là điều rất phổ biến. Tuy nhiên có người bị loét dạ dày, có người không bị, điều này có thể phụ thuộc và đặc điểm cá nhân, yếu tố môi trường hoặc di truyền của họ.

2. Sử dụng thuốc

Việc sử dụng thường xuyên và lâu dài một số loại thuốc có thể dẫn đến loét dạ dày, trong đó đáng lưu ý nhất là nhóm thuốc chống viêm giảm đau không steroid (NSAID) và aspirin. NSAID là nhóm thuốc có tác dụng giảm đau, chống viêm, hạ sốt nên có lượng sử dụng rất phổ biến. Đây là nhóm thuốc mà người bệnh có thể mua không cần đơn thuốc của bác sĩ, và thường là tự sử dụng không theo khuyến cáo, vì vậy nguy cơ xảy ra loét dạ dày trên nền các bệnh mạn tính là điều rất dễ xảy ra.

E:\Cong tac vien\nguyen nhan_pic 2.jpg

 Pic 2: NSAID là nguyên nhân gây viêm loét dạ dày

Tại sao nhóm thuốc giảm đau NSAID có thể gây viêm loét dạ dày?

Một số thuốc thuộc nhóm NSAID được sử dụng phổ biến như ibuprofen, diclofenac, indomethacin, piroxicam, naproxen… Hiệu quả điều trị giảm đau, chống viêm, hạ sốt của aspirin cũng như các NSAID có được là nhờ thông qua ức chế sản xuất prostaglandin – đây là một chất trung gian hóa học có vai trò trong sự hình thành quá trình viêm, đau, sốt, đồng thời cũng là yếu tố quan trọng làm tăng giảm chất nhầy bảo vệ niêm mạc dạ dày. Như vậy, song song với tác dụng làm giảm đau, chống viêm, hạ sốt, thì các NSAID đồng thời cũng gây nên tác dụng phụ đó là làm giảm sự tạo thành chất nhầy của niêm mạc dạ dày, do đó acid sẵn có trong dạ dày sẽ tấn công niêm mạc của chính nó và gây loét. Các NSAID đường uống, đường tiêm, đặt, bôi ngoài trên diện rộng, kéo dài… đều có thể gây loét dạ dày.

Các yếu tố nguy cơ gây viêm loét dạ dày khi sử dụng NSAID

Tỷ lệ gặp phản ứng có hại trên đường tiêu hóa dao động từ 5% đến 50% ở những bệnh nhân dùng NSAID. Khoảng 1-2% số bệnh nhân sử dụng NSAID phải nhập viện do các biến chứng nghiêm trọng như thủng và xuất huyết tiêu hóa. Cả hai biến chứng này đều có tỷ lệ tử vong cao.

Như vậy, có thể thấy nguy cơ viêm loét dạ dày khi sử dụng NSAID ở mức khá cao. Trong một báo cáo tổng hợp các hướng dẫn điều trị từ năm 1999 đến 2009 tại Mỹ, Hồng Kông, Canada, Tây Ban Nha, khi người bệnh sử dụng các thuốc NSAID và kèm theo các yếu tố sau thì sẽ có nguy cơ cao bị viêm loét dạ dày:

– Tuổi cao (60-75 tuổi)

– Tiền sử loét dạ dày tá tràng có hoặc không có biến chứng

– Dùng đồng thời với thuốc chống đông

– Dùng đồng thời với corticosteroid

– Dùng đồng thời với aspirin liều thấp

– Dùng nhiều NSAID đồng thời

– Các yếu tố nguy cơ khác: dùng liều cao NSAID, dùng đồng thời với clopidogrel, các thuốc chống trầm cảm SSRI, tiền sử bệnh tiêu hóa, viêm khớp dạng thấp, bệnh tim mạch, nhiễm HP.

Làm thế nào để phòng tránh/giảm bớt tác hại loét dạ dày khi dùng NSAID?

– Dùng các dạng bào chế thích hợp: dùng NSAID dạng viên bao tan trong ruột, hoặc dạng viên sủi, bột hòa tan.

– Dùng thêm các thuốc chống loét: như các thuốc ức chế bơm proton (Prilosec, Nexium…), thuốc bao niêm mạc dạ dày (Maalox, Attapulgite…), prostaglandin tổng hợp (Misoprostol)

3. Hội chứng Zollinger-Ellison

Hội chứng Zollinger-Ellison là một rối loạn hiếm gặp, xảy ra khi một hoặc nhiều khối u hình thành trong tuyến tụy và tá tràng. Các khối u giải phóng một lượng lớn gastrin, một loại hormone khiến dạ dày sản xuất một lượng lớn axit. Các axit dư thừa gây ra loét dạ dày, tá tràng và các triệu chứng kèm theo khác.

4. Các yếu tố nguy cơ khác

Những yếu tố này có thể làm tăng nguy cơ mắc viêm loét dạ dày, tuy nhiên bằng chứng vẫn chưa rõ ràng:

– Stress: sự căng thẳng thần kinh do các stress tâm lý kéo dài gây nên trạng thái cường phó giao cảm, do đó gây tăng tiết axit HCl (một loại axit trong dịch dạ dày) và tăng bóp cơ trơn dạ dày.

– Yếu tố thể tạng: người có nhóm máu O có tần suất bị bệnh cao hơn các nhóm máu khác, nguyên nhân có thể do sự liên quan giữa kháng nguyên HLA B5 (là kháng nguyên thường được tìm thấy trên một số tế bào máu) với tần suất loét dạ dày tá tràng.

– Thói quen ăn uống, sinh hoạt: hút thuốc lá, uống rượu, sử dụng các chất kích thích, ăn các thức ăn cay nóng…

Như vậy, bệnh lý viêm loét dạ dày có thể do rất nhiều nguyên nhân gây ra. Mặc dù bệnh khó chữa khỏi ngay lập tức và triệt để, tuy nhiên biết được những yếu tố căn nguyên này sẽ giúp người bệnh có phương pháp điều trị viêm loét dạ dày phù hợp nhất.

Nguyên Nhân Chính Của

Viêm Loét Dạ Dày

Viêm loét dạ dày là một bệnh lý tiêu hóa rất phổ biến tại Việt Nam cũng như trên thế giới. Bệnh do rất nhiều nguyên nhân gây ra và có nhiều biến chứng nguy hiểm như xuất huyết dạ dày, thủng dạ dày, ung thư dạ dày… Nhiều trường hợp bệnh tiến triển mà không có triệu chứng, và người bệnh cũng chủ quan với những nguy cơ có thể gặp phải.

Viêm loét dạ dày là kết quả của sự mất cân bằng giữa 2 yếu tố: yếu tố bảo vệyếu tố phá hủy niêm mạc dạ dày. Yếu tố bảo vệ của dạ dày là lớp niêm mạc bình thường có lớp nhầy bao phủ chống lại môi trường acid trong dạ dày, nhưng nếu nồng độ acid trong dạ dày tăng lên hoặc lượng chất nhầy bao phủ niêm mạc dạ dày giảm sẽ gây ra loét dạ dày. Dưới đây là những nguyên nhân dẫn đến sự mất cân bằng đó:

1. Vi khuẩn Helicobacter pylori (HP)

Được phát hiện ra năm 1982 bởi các nhà khoa học Úc, Helicobacter pylori (còn gọi là xoắn khuẩn HP) được cho là tác nhân gây nhiễm khuẩn mạn tính phổ biến nhất thế giới, đồng thời là căn nguyên chính của viêm loét dạ dày và loét đường tiêu hóa.

Hầu hết các loại vi khuẩn không thể sống trong dạ dày vì đây là môi trường rất axit .Tuy nhiên, vi khuẩn HP có thể sống và sinh sôi thuận lợi trong lớp chất nhầy bao phủ niêm mạc dạ dày, bởi chúng tiết ra một loại enzyme gọi là urease. Chính enzyme urease này tạo ra các chất trung hòa giúp bảo vệ HP khỏi tính axit mạnh của dạ dày.

E:\Cong tac vien\nguyen nhan_pic 1.jpg

Pic 1: Vi khuẩn H. pylori gây viêm loét dạ dày

HP gây viêm loét dạ dày như thế nào?

HP hiện diện trong cơ thể con người là điều rất phổ biến, bởi chúng lây lan rất dễ dàng thông qua việc dùng chung dụng cụ ăn uống hoặc tiếp xúc trực tiếp với nước bọt hay phân của người nhiễm bệnh. Trong điều kiện bình thường thì HP không gây hại, nhưng khi lớp nhầy bao phủ niêm mạc bị phá vỡ nó có thể gây viêm và dẫn đến loét dạ dày.

Xoắn khuẩn HP sẽ sản sinh ra NH3,  điều này làm cản trở sự tổng hợp chất nhầy, đồng thời làm biến dạng cấu trúc phân tử của chất nhầy khiến cho lớp chất nhầy của niêm mạc dạ dày dễ bị tiêu hủy bởi Pepsin (là một loại men tiêu hóa thức ăn của chính dạ dày tiết ra). Bên cạnh đó, HP còn tiết ra các loại enzyme và độc tố gây tổn thương trực tiếp lên tế bào niêm mạc dạ dày.

Xoắn khuẩn HP tồn tại trong cơ thể người khỏe mạnh là điều rất phổ biến. Tuy nhiên có người bị loét dạ dày, có người không bị, điều này có thể phụ thuộc và đặc điểm cá nhân, yếu tố môi trường hoặc di truyền của họ.

2. Sử dụng thuốc

Việc sử dụng thường xuyên và lâu dài một số loại thuốc có thể dẫn đến loét dạ dày, trong đó đáng lưu ý nhất là nhóm thuốc chống viêm giảm đau không steroid (NSAID) và aspirin. NSAID là nhóm thuốc có tác dụng giảm đau, chống viêm, hạ sốt nên có lượng sử dụng rất phổ biến. Đây là nhóm thuốc mà người bệnh có thể mua không cần đơn thuốc của bác sĩ, và thường là tự sử dụng không theo khuyến cáo, vì vậy nguy cơ xảy ra loét dạ dày trên nền các bệnh mạn tính là điều rất dễ xảy ra.

E:\Cong tac vien\nguyen nhan_pic 2.jpg

 Pic 2: NSAID là nguyên nhân gây viêm loét dạ dày

Tại sao nhóm thuốc giảm đau NSAID có thể gây viêm loét dạ dày?

Một số thuốc thuộc nhóm NSAID được sử dụng phổ biến như ibuprofen, diclofenac, indomethacin, piroxicam, naproxen… Hiệu quả điều trị giảm đau, chống viêm, hạ sốt của aspirin cũng như các NSAID có được là nhờ thông qua ức chế sản xuất prostaglandin – đây là một chất trung gian hóa học có vai trò trong sự hình thành quá trình viêm, đau, sốt, đồng thời cũng là yếu tố quan trọng làm tăng giảm chất nhầy bảo vệ niêm mạc dạ dày. Như vậy, song song với tác dụng làm giảm đau, chống viêm, hạ sốt, thì các NSAID đồng thời cũng gây nên tác dụng phụ đó là làm giảm sự tạo thành chất nhầy của niêm mạc dạ dày, do đó acid sẵn có trong dạ dày sẽ tấn công niêm mạc của chính nó và gây loét. Các NSAID đường uống, đường tiêm, đặt, bôi ngoài trên diện rộng, kéo dài… đều có thể gây loét dạ dày.

Các yếu tố nguy cơ gây viêm loét dạ dày khi sử dụng NSAID

Tỷ lệ gặp phản ứng có hại trên đường tiêu hóa dao động từ 5% đến 50% ở những bệnh nhân dùng NSAID. Khoảng 1-2% số bệnh nhân sử dụng NSAID phải nhập viện do các biến chứng nghiêm trọng như thủng và xuất huyết tiêu hóa. Cả hai biến chứng này đều có tỷ lệ tử vong cao.

Như vậy, có thể thấy nguy cơ viêm loét dạ dày khi sử dụng NSAID ở mức khá cao. Trong một báo cáo tổng hợp các hướng dẫn điều trị từ năm 1999 đến 2009 tại Mỹ, Hồng Kông, Canada, Tây Ban Nha, khi người bệnh sử dụng các thuốc NSAID và kèm theo các yếu tố sau thì sẽ có nguy cơ cao bị viêm loét dạ dày:

– Tuổi cao (60-75 tuổi)

– Tiền sử loét dạ dày tá tràng có hoặc không có biến chứng

– Dùng đồng thời với thuốc chống đông

– Dùng đồng thời với corticosteroid

– Dùng đồng thời với aspirin liều thấp

– Dùng nhiều NSAID đồng thời

– Các yếu tố nguy cơ khác: dùng liều cao NSAID, dùng đồng thời với clopidogrel, các thuốc chống trầm cảm SSRI, tiền sử bệnh tiêu hóa, viêm khớp dạng thấp, bệnh tim mạch, nhiễm HP.

Làm thế nào để phòng tránh/giảm bớt tác hại loét dạ dày khi dùng NSAID?

– Dùng các dạng bào chế thích hợp: dùng NSAID dạng viên bao tan trong ruột, hoặc dạng viên sủi, bột hòa tan.

– Dùng thêm các thuốc chống loét: như các thuốc ức chế bơm proton (Prilosec, Nexium…), thuốc bao niêm mạc dạ dày (Maalox, Attapulgite…), prostaglandin tổng hợp (Misoprostol)

3. Hội chứng Zollinger-Ellison

Hội chứng Zollinger-Ellison là một rối loạn hiếm gặp, xảy ra khi một hoặc nhiều khối u hình thành trong tuyến tụy và tá tràng. Các khối u giải phóng một lượng lớn gastrin, một loại hormone khiến dạ dày sản xuất một lượng lớn axit. Các axit dư thừa gây ra loét dạ dày, tá tràng và các triệu chứng kèm theo khác.

4. Các yếu tố nguy cơ khác

Những yếu tố này có thể làm tăng nguy cơ mắc viêm loét dạ dày, tuy nhiên bằng chứng vẫn chưa rõ ràng:

– Stress: sự căng thẳng thần kinh do các stress tâm lý kéo dài gây nên trạng thái cường phó giao cảm, do đó gây tăng tiết axit HCl (một loại axit trong dịch dạ dày) và tăng bóp cơ trơn dạ dày.

– Yếu tố thể tạng: người có nhóm máu O có tần suất bị bệnh cao hơn các nhóm máu khác, nguyên nhân có thể do sự liên quan giữa kháng nguyên HLA B5 (là kháng nguyên thường được tìm thấy trên một số tế bào máu) với tần suất loét dạ dày tá tràng.

– Thói quen ăn uống, sinh hoạt: hút thuốc lá, uống rượu, sử dụng các chất kích thích, ăn các thức ăn cay nóng…

Như vậy, bệnh lý viêm loét dạ dày có thể do rất nhiều nguyên nhân gây ra. Mặc dù bệnh khó chữa khỏi ngay lập tức và triệt để, tuy nhiên biết được những yếu tố căn nguyên này sẽ giúp người bệnh có phương pháp điều trị viêm loét dạ dày phù hợp nhất.

ĐIỀU TRỊ BỆNH BẰNG THẢO DƯỢC AN TOÀN & HIỆU QUẢ

MÃ TIỀN CHẾ

Mã tiền là dược liệu quý được sử dụng trong các bài thuốc Y học cổ truyền hàng trăm năm nay. Mã tiền chế thường được dùng như vị thuốc chủ trị có tác dụng thúc đẩy sự vận hành của huyết dịch, giúp trừ khử ứ trệ, thông kinh hoạt lạc, chống viêm, chống tê mỏi, giảm đau nhanh cơn đau xương khớp cũng như giúp điều trị các bệnh lý nhược cơ, bại liệt rất tốt. Mã tiền chưa qua chế biến chứa độc tố nên chỉ dùng ngâm rượu xoa bóp bên ngoài để điều trị đau nhức xương khớp. Trong khi đó, mã tiền qua chế biến, loại bỏ độc tính, dùng đường uống phát huy hiệu quả rõ rệt và tác dụng nhanh hơn. Có rất nhiều bài thuốc dân gian chữa phong thấp hiệu quả sử dụng vị thuốc Mã tiền chế làm thành phần chính.

👉 Tác Dụng Thần Kỳ Của Mã Tiền Chế

ĐƯƠNG QUY

Đương quy (Radix Angelicae sinensis) là rễ phơi hoặc sấy khô của cây đương quy, là vị thuốc có mặt trong 80 bài thuốc y học cổ truyền Trung Hoa cách đây hàng ngàn năm. Trong tên gọi của đương quy, quy có nghĩa là về. Đặt tên như vậy là vì vị thuốc này có tác dụng điều hòa khí huyết, làm cho huyết trở về đúng vị trí. Đương quy còn được gọi là nhân sâm dành cho phụ nữ vì được sử dụng trong các bài thuốc bắc điều trị  các bệnh của phụ nữ.

Theo đông y, đương quy vị ngọt, cay tính ôn; vào 3 kinh: tâm, can, và tỳ; có tác dụng bổ huyết, hoạt huyết, nhuận táo, hoạt trường, điều huyết, thông kinh. Đương quy là một vị thuốc rất phổ thông, là đầu vị trong thuốc chữa bệnh phụ nữ, đồng thời dùng trong nhiều đơn thuốc bổ và trị bệnh khác.

ĐỖ TRỌNG

Tên gọi khác: Tự trọng, Ngọc tỳ bi Tên khoa học: Eucommia ulmoides Oliv. Họ thực vật:  Đỗ trọng Eucommiaceae

Là vị thuốc từ vỏ phơi khô của cây đỗ trọng,  được sử dụng hàng ngàn năm nay với công năng kỳ diệu, mang đầy tính huyền thoại. Các thầy thuốc dùng đỗ trọng làm vị thuốc chủ đạo trong các bài thuốc điều trị phong thấp, tê ngứa, đau lưng dưới, đau đầu gối, ngăn ngừa sảy thai, hạ huyết áp. Khoa học hiện đại đã kiểm chứng một số tác dụng của đỗ trọng theo đông y và cho kết quả khả quan. Không những vậy, đỗ trọng còn có ý nghĩa trong tìm kiếm phương pháp điều trị mới cho các bệnh nan y. Ngày nay, ngoài các phương pháp chế biến truyền thống như sao đen, dùng sống, ngâm rượu, trên thị trường đã có thêm các chế phẩm bào chế hiện đại của đỗ trọng nhằm tiện lợi cho người dùng.

ĐỘC HOẠT

Độc hoạt là rễ phơi khô của cây độc hoạt, chứa nhiều chất coumarin nên có mùi thơm dễ chịu. Theo Đông y, độc hoạt vị cay đắng, tính ôn; vào kinh can, thận và bàng quang, có tác dụng tán phong hàn thấp tà, nhất là về mặt trừ phong giảm đau, dùng chữa trị phong thấp, đau khớp, thiên về phong tà, chân tay co quắp, đau lưng, nhức gối mà đau di chuyển chỗ này sang chỗ khác. Hễ cơ nhục, các khớp tê bởi hàn thấp tà, không dùng loại khí vị mănh liệt này, thì không thể nhập thẳng đến giữa kinh mạch khớp xương, vì vậy Độc hoạt là thuốc trị các chứng nặng về phong tê mềm yếu ắt không thể thiếu được.

Ngoài ra Độc hoạt còn dùng cả cho các chứng bệnh do phong, đau đầu, hoa mắt và đau sưng răng.

ĐIỀU TRỊ BỆNH BẰNG THẢO DƯỢC AN TOÀN & HIỆU QUẢ

Mã Tiền Chế

Mã tiền là dược liệu quý được sử dụng trong các bài thuốc Y học cổ truyền hàng trăm năm nay. Mã tiền chế thường được dùng như vị thuốc chủ trị có tác dụng thúc đẩy sự vận hành của huyết dịch, giúp trừ khử ứ trệ, thông kinh hoạt lạc, chống viêm, chống tê mỏi, giảm đau nhanh cơn đau xương khớp cũng như giúp điều trị các bệnh lý nhược cơ, bại liệt rất tốt. Mã tiền chưa qua chế biến chứa độc tố nên chỉ dùng ngâm rượu xoa bóp bên ngoài để điều trị đau nhức xương khớp. Trong khi đó, mã tiền qua chế biến, loại bỏ độc tính, dùng đường uống phát huy hiệu quả rõ rệt và tác dụng nhanh hơn. Có rất nhiều bài thuốc dân gian chữa phong thấp hiệu quả sử dụng vị thuốc Mã tiền chế làm thành phần chính.

👉 Tác Dụng Thần Kỳ Của Mã Tiền Chế

ĐƯƠNG QUY

Đương quy (Radix Angelicae sinensis) là rễ phơi hoặc sấy khô của cây đương quy, là vị thuốc có mặt trong 80 bài thuốc y học cổ truyền Trung Hoa cách đây hàng ngàn năm. Trong tên gọi của đương quy, quy có nghĩa là về. Đặt tên như vậy là vì vị thuốc này có tác dụng điều hòa khí huyết, làm cho huyết trở về đúng vị trí. Đương quy còn được gọi là nhân sâm dành cho phụ nữ vì được sử dụng trong các bài thuốc bắc điều trị  các bệnh của phụ nữ. Theo đông y, đương quy vị ngọt, cay tính ôn; vào 3 kinh: tâm, can, và tỳ; có tác dụng bổ huyết, hoạt huyết, nhuận táo, hoạt trường, điều huyết, thông kinh. Đương quy là một vị thuốc rất phổ thông, là đầu vị trong thuốc chữa bệnh phụ nữ, đồng thời dùng trong nhiều đơn thuốc bổ và trị bệnh khác.

ĐỖ TRỌNG

Tên gọi khác: Tự trọng, Ngọc tỳ bi Tên khoa học: Eucommia ulmoides Oliv. Họ thực vật:  Đỗ trọng Eucommiaceae

Là vị thuốc từ vỏ phơi khô của cây đỗ trọng,  được sử dụng hàng ngàn năm nay với công năng kỳ diệu, mang đầy tính huyền thoại. Các thầy thuốc dùng đỗ trọng làm vị thuốc chủ đạo trong các bài thuốc điều trị phong thấp, tê ngứa, đau lưng dưới, đau đầu gối, ngăn ngừa sảy thai, hạ huyết áp. Khoa học hiện đại đã kiểm chứng một số tác dụng của đỗ trọng theo đông y và cho kết quả khả quan. Không những vậy, đỗ trọng còn có ý nghĩa trong tìm kiếm phương pháp điều trị mới cho các bệnh nan y. Ngày nay, ngoài các phương pháp chế biến truyền thống như sao đen, dùng sống, ngâm rượu, trên thị trường đã có thêm các chế phẩm bào chế hiện đại của đỗ trọng nhằm tiện lợi cho người dùng.

ĐỌC HOẠT

Độc hoạt là rễ phơi khô của cây độc hoạt, chứa nhiều chất coumarin nên có mùi thơm dễ chịu. Theo Đông y, độc hoạt vị cay đắng, tính ôn; vào kinh can, thận và bàng quang, có tác dụng tán phong hàn thấp tà, nhất là về mặt trừ phong giảm đau, dùng chữa trị phong thấp, đau khớp, thiên về phong tà, chân tay co quắp, đau lưng, nhức gối mà đau di chuyển chỗ này sang chỗ khác. Hễ cơ nhục, các khớp tê bởi hàn thấp tà, không dùng loại khí vị mănh liệt này, thì không thể nhập thẳng đến giữa kinh mạch khớp xương, vì vậy Độc hoạt là thuốc trị các chứng nặng về phong tê mềm yếu ắt không thể thiếu được.

Ngoài ra Độc hoạt còn dùng cả cho các chứng bệnh do phong, đau đầu, hoa mắt và đau sưng răng.

TRUNG TÂM TƯ VẤN SỨC KHỎE 

TRUNG TÂM B.S TƯ VẤN

G.Đ TRUNG TÂM

BÁC SĨ PHẠM HƯNG CỦNG

Nguyên Vụ Trưởng Vụ YHCT - Bộ Y Tế Bác Sĩ Chuyên Khoa 2/ Thầy thuốc ưu tú Chủ tịch danh dự Hội NC YHCT Quốc Tế Hồng Kông

» NHẬN TƯ VẤN CHUYÊN GIA






— QUẢNG CÁO —

— QUẢNG CÁO —

2020-08-31T12:32:17+02:00

Bình Luận Bài Viết

Call Now Button